Lịch sử nghề kim hoàn Việt Nam
Từ 5.000 năm trước công nguyên, loài người đã tìm ra vật tư ngành nước vàng và sử dụng vàng. Người Ai Cập phát hiện vàng trước tiên ở thượng lưu sông Nile, kim loại quý này đã góp phần thêm vẻ đẹp cho nền văn minh cổ đại Ai Cập. Trong dòng tiến hóa của nhân loại, sắc vàng rực rỡ choáng ngợp ấy là niềm vui, nguồn hy vọng cho biết bao người.
Quá trình hình thành và phát triển của các làng nghề vàng bạc việt nam
Ở nước ta, nghề mỹ nghệ kim hoàn đã có từ hàng ngàn năm, đã trở thành nghề cổ truyền cùng với bao nghề thủ công khác, nhiều làng nghề mỹ nghệ kim hoàn nổi tiếng từ thời Việt cổ cho đến bây giờ.
1. Làng nghề vàng bạc Châu Khê (Hải Dương)
Cho đến bây giờ, làng nghề vàng bạc Châu Khê, thuộc xã Thúc Kháng, huyện Giang Binh, tỉnh Hải Dương đã có lịch sử tồn tại trên 500 năm, bắt nguồn từ Lưu Xuân Tín, quan Thượng thư bộ lại dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) có công khởi dựng nghề đúc bạc nén của làng.
Là quan Thượng thư bộ lại, nhưng ông Lưu Xuân Tín rất được triều đình nhà Lê tín nhiệm, giao cho trọng trách lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long bởi thời điểm ấy, bạc nén là đơn vị thay thế tiền tệ trong mọi hoạt động kinh tế, buôn bán trao đổi của xã hội. Được triều đình dành cho đặc quyền, Lưu Xuân Tín đã ưu tiên cho người làng ông lên Thăng Long lập xưởng đúc bạc tại phường Đông Các. Dần dần, từ nghề đúc bạc, những người thợ Châu Khê đã phát triển lên nghề làm đồ trang sức vàng (còn gọi là kim hoàn). Kể từ đó, nghề làm vàng bạc Châu Khê trở nên lừng danh không chỉ ở Hải Dương mà còn lan truyền đến Hà Nội, nơi nổi tiếng với tên phố Hàng Bạc, tập trung rất nhiều thợ làm vàng bạc từ làng này.
Không phải là người đầu tiên tìm ra kỹ thuật sản xuất đồ kim hoàn, nhưng người Châu Khê có công lớn trong việc kết hợp khéo léo giữa đôi bàn tay, sự sáng tạo của trí tuệ, bí quyết riêng của bản thân với kỹ thuật làm vàng cổ truyền để cho ra đời những sản phẩm hoàn thiện nhất. Họ không chỉ mang đến cho người sử dụng những món trang sức lộng lẫy, sang trọng mà còn góp phần duy trì làng nghề truyền thống của cha ông và sự phát triển nghề kim hoàn ở nước ta. Đặc biệt, trong khoảng gần 100 năm trở lại đây, làng nghề Châu Khê đã đạt tới đỉnh cao cả về kỹ thuật sản xuất, chất lượng và số lượng sản phẩm vàng bạc trong cả nước.
2. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, từ lâu nổi tiếng khắp nơi, sản phẩm của làng nghề không chỉ có mặt ở nhiều tỉnh thành trong nước mà còn được khách nước ngoài biết tiếng bởi độ tinh xảo của những món hàng độc đáo. Nghề truyền thống này là niềm tự hào của người dân nơi đây do thu hút một lực lượng lao động khá lớn, đến 1.500 người và đem lại thu nhập ổn định cho người làm nghề.
Tổ nghề chạm bạc là Nguyễn Kim Lâu, ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVII, vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long (Cao Bằng ngày nay). Về sau, ông đến vùng Kiến Xương (Thái Bình) lập ra 12 phường để truyền nghề, các phường nghề ngày đó nay là nghề chạm bạc Đồng Xâm.
Cảm phục tài nghề và danh tiếng Cao Đình Hương, quan Thượng thư bộ lại lúc bấy giờ (dưới thời Gia Long) là Trần Minh cùng với vợ là Huỳnh Thị Ngọc mời ông về dinh phủ dạy nghề kim hoàn cho ba người con trai: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật ròng rã suốt 11 năm. Năm 1821, ông Cao Đình Hương qua đời. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề kim hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hoà, Trần Điện, Trần Điền nguợc ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề kim hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Ở miền Nam, nghề kim hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào phương Nam. Điểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn.
Công lao của các tổ sư kim hoàn không chỉ người đời sau luôn ghi nhớ mà còn nhận được nhiều sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại Nhà thờ Tổ Kim hoàn ở Huế và Lệ Châu Hội Quán (thành phố Hồ Chí Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của triều Nguyễn. Đó là hàm cấp bậc “Tiến sĩ khai hóa kim ngân”.
Nơi quy tụ các tay nghề thợ bạc cùng nhau đoàn kết để phát huy nghề truyền thống được gọi là “Lệ Châu Hội Sở”, sau đổi tên là “Lệ Châu Hội Quán” cho đến nay.
Lễ cúng tổ nghề kim hoàn ở Lệ Châu Hội Quán
Lệ Châu Hội Quán
3. Trung Tâm
- Hội đồng sáng lập Trung Tâm Giáo Dục Nghề Nghiệp Mỹ Nghệ Kim Hoàn
Họ và tên | Chức vụ |
1. Ông Nguyễn Văn Dưng
2. Ông Trần Văn Tư 3. Ông Lưu Ngọc Phi 4. Ông Võ Kim Seng 5. Ông Phạm Văn Tám 6. Ông Nguyễn Tấn Kiệt 7. Ông Đoàn Thế Lập 8. Ông Võ Văn Khách 9. Ông Nguyễn Tu Mi 10. Ông Trần Hải 11. Ông Vũ Công Đức 12. Ông Nguyễn Minh Còn 13. Ông Nguyễn Ngọc Đê 14. Ông Nguyễn Văn Thình 15. Ông Trà Văn Tâm 16. Ông Mai Văn Có 17. Ông Nguyễn Thành Chung 18. Ông Nguyễn Tấn Hùng 19. Ông Phạm Văn Trọng |
Chủ tịch Hội Đồng
Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng Thành viên Hội Đồng |
- Ban Chấp Hành Hội Mỹ Nghệ Kim Hoàn Đá Quý Thành Phố Hồ Chí Minh
Họ và tên | Chức vụ |
1. Ông Nguyễn Văn Dưng
2. Ông Lê Hữu Hạnh 3. Ông Nguyễn Tu Mi 4. Ông Phạm Văn Tám 5. Bà Bùi Thị Thúy Nga 6. Ông Nguyễn Chí Nhân 7. Ông Đỗ Thanh Danh 8. Ông Bùi Quang Tuấn 9. Ông Võ Trường Sơn 10. Ông Nguyễn Tấn Kiệt 11. Ông Hồ Thanh Tuấn 12. Ông Trần Hải 13. Ông Nguyễn Văn Trinh 14. Ông Ngô Thành Long 15. Ông Trần Văn Trung 16. Ông Nguyễn Văn Tiên 17. Ông Trần Văn Dân 18. Ông Trần Công 19. Ông Huỳnh Tuấn Kiệt 20. Ông Nguyễn Lâm Vinh Huy 21. Ông Huỳnh Kim Phúc 22. Ông Đặng Ngọc Quý 23. Bà Lê Thị Kim Gương 24. Ông Vương Hớn Chương 25. Ông Đặng Thanh Sơn 26. Ông Võ Công Đởm 27. Ông Nguyễn Văn Nguyên 28. Bà Đoàn Hồng Ngọc 29. Bà Nguyễn Thị Bảo Ngọc 30. Ông Ngô Ngọc Tuấn 31. Ông Nguyễn Ngọc Hiệp 32. Ông Nguyễn Hoàng Việt 33. Bà Đoàn Thị Anh Vũ |
Chủ Tịch Hội
Phó Chủ Tịch Hội Phó Chủ Tịch Hội Phó Chủ Tịch Hội Phó Chủ Tịch Hội Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Thường Vụ Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành Ủy Viên Ban Chấp Hành |
- Ban Giám Đốc Trung tâm Giáo dục Nghề nghiệp Mỹ Nghệ Kim Hoàn
Họ và tên | Chức vụ |
1. Bà Lê Thị Kim Gương
2. Ông Phạm Bá Nhuận |
Giám Đốc
Phó Giám Đốc |
- Đội ngũ cán bộ giáo viên
1. NNƯT Gian Tô Hà
2. NNƯT Huỳnh Kim Phúc 3. NNKH Phạm Bá Nhuận 4. NNKH Nguyễn Xuân Việt 5. NNKH Nguyễn Đình Tuyến 6. Nghệ Nhân – Tiến Sĩ Đoàn Thị Anh Vũ 7. Thạc Sĩ Võ Trường Sơn 8. Thạc sĩ Nguyễn Văn Hải 9. Thầy Nguyễn Ngọc Khanh 10. Thầy Hoàng Khải Sơn 11. Thầy Nguyễn Văn Trung 12. Thầy Nguyễn Trí Trung 13. Thầy Trang Thanh Phước 14. Thầy Lưu Đình Ngọc Long 15. Thầy Hồ Trọng Thảo 16. Thầy Nguyễn Huy Hoàng 17. Thầy Trương Huỳnh Huy 18. Thầy Huỳnh Công Toàn 19. Thầy Trần Thanh Nhã 20. Cô Mai Thị Phương Hiếu 21. Cô Lê Kim Ngân 22. Cô Phạm Hồng Kỳ Trúc 23. Cô Võ Huỳnh Vân Anh 24. Cô Nguyễn Thị Bích Lâm 25. Cô Nguyễn Đinh Thị Hoài Như 26. Cô Huỳnh Kim Thủy Trúc |
- Các phòng ban Trung tâm
1. Ban Giám Đốc
2. Phòng Đào Tạo 3. Phòng Tổ Chức – Hành Chính – Kế Toán 4. Phòng Tuyển sinh – Thông tin – Truyền Thông |